Bời vì phản kháng không thể tách rời khỏi tâm trí, cho nên từ bỏ phản kháng – tức là vâng phục – là kết thúc vai trò chủ nhân của tâm trí, kẻ mạo danh giả vờ là “con người bạn”, vốn là vị thần giả tạo. Toàn bộ khái niệm về khoan thứ lúc ấy bèn trở nên không cần thiết nữa. Rơi trở lại mức độ ý thức dưới mức hoạt động của tâm trí, tức trở lại mức độ tiền tư duy của tổ tiên xa xưa của chúng ta và của các loại động vật cùng cây cỏ, không phải là giải pháp cho chúng ta.
Giác ngộ hay tỏ ngộ là trạng thái trọn vẹn, trạng thái “nhất thể” tràn đầy an lạc. Cũng vậy, bao lâu bạn còn ở trong chiều kích này, bạn vẫn còn lệ thuộc vào bản chất chu kỳ của nó và vào qui luật vô thường của tất cả mọi sự vật, nhưng bạn không còn nhận định sự kiện này là tệ hại hay “xấu xa” nữa – nó chỉ đơn thuần đang hiện hữu. Liệu sự thành tựu mục đích bên ngoài, liệu sự thành bại trên đời của chúng ta có quan trọng không?
Bạn có thể nhớ lại rằng chúng ta đã bàn về bản chất lưỡng diện của lòng trắc ẩn đích thực, vốn là tri kiến về mối liên hệ cộng thông về tính tử vong và tính bất diệt của mọi tạo vật. Hãy tập trung chú ý theo hơi thở chuyển động ra vào cơ thể bạn. Hãy lưu trú toàn triệt vào hiện tại.
Vì vậy, bạn hãy ngưng chờ đợi, đừng quan tâm đến loại trạng thái tâm trí này nữa. Các dạng sống cá biệt hiển nhiên không quan trọng cho lắm trong cuộc chơi này. Nhưng bao lâu tiêu cực vẫn còn đó, khi ấy bạn hãy cứ lợi dụng nó.
Sự náo động tâm trí quay lại; tĩnh lặng mất đi. Bởi vì tự ngã chính là cảm nhận về cái tôi, cho nên nó cần phải đồng hóa với các sự vật bên ngoài. Ông dùng thuật ngữ Bản thể hiện tiền (Being) nhằm ám chỉ điều gì?
Nếu tệ hại hơn, nó khiến bạn phải lo âu. Giờ đây hãy để cho tiếng ồn, hay bất cứ thứ gì gây ra phản ứng tiêu cực xuyên thẳng qua bạn. Một tình huống cần phải được giải quyết hoặc chấp nhận – đúng vậy.
Nhưng ngoài cái quá khứ chúng ta tưởng nhớ và đồng hóa với nó, chẳng phải còn có một tầng quá khứ bên trong chúng ta vốn bị chôn vùi khá sâu đó sao? Tôi đang đề cập đến cái quá khứ vô thức, nó khuôn định cuộc sống của chúng ta nhất là thông qua các kinh nghiệm trong thời thơ ấu, có lẽ ngay cả đến các kinh nghiệm trong tiền kiếp nữa. Vô niệm là trạng thái ý thức không có suy nghĩ. Quan sát từ một bình diện cao hơn, hai mặt đối nghịch tiêu cực và tích cực là hai mặt của cùng một đồng tiền, nếu thuộc về nỗi thống khổ căn bản vốn bất khả phân ly với trạng thái ý thức vị ngã bị đồng hóa với tâm trí.
Tình yêu, niềm vui, và sự thanh thản không thể triển nở cho đến khi bạn giải thoát bản thân mình ra khỏi sự thống trị của tâm trí. Nó sẽ đe dọa con người lòng đầy u uất, phẫn nộ, hay đang bị đối xử bất công của bạn. Chỉ thông qua tiếp cẫn với sức mạnh của cái Bây giờ, vốn là sức mạnh của chính mình, bạn mới có lòng khoan dung đích thực.
Bạn sẽ thấy rằng tương lai thường được tưởng tượng là khả quan hơn hoặc tệ hại hơn so với hiện tại. Tiến trình này được Chúa Jesus giải thích trong chuyện ngụ ngôi của ngài về đứa con hư hỏng, bỏ nhà đi hoang, xài phí hết tiền của đem theo, trở nên thiếu thốn cơ cực, rồi vì đau khổ giày vò buộc lòng phải quay về nhà. Đề ra mục tiêu để nỗ lực hướng đến; dự đoán tương lai bằng các phương tiện như khuôn mẫu và qui luật, vật lý học, toán học, và vân vân đã học được trong quá khứ, để có thể hành động thích hợp trên các cơ sở, các tiên đoán của chúng ta.
Ngược lại, nếu tâm trí bạn lưu trú ở đó rồi trách móc bản thân, ăn năn hối tiếc, hay cảm thấy tội lỗi, vậy là bạn đang biến sai lầm ấy thành “tôi” và “của tôi”: Bạn biến nó thành một bộ phận thuộc nhận thức về cái tôi của bạn, và nó đã trở thành thời gian tâm lý, vốn luôn luôn gắn liền với cảm nhận về cái tôi giả tạo của bạn. Một số xúc cảm dễ dàng nhận diện được như giận dữ, sợ hãi, đau buồn, và vân vân chẳng hạn. Liệu nó vẫn còn quá khứ và tương lai không? Liệu chúng ta còn có thể đề cập đến tương lai theo bất cứ một ý nghĩa nào đó không? Câu hỏi: “Mấy giờ rồi?” hay “Hôm nay là ngày thứ mấy?” – nếu như có ai đó nêu lên – sẽ hoàn toàn vô nghĩa.