Đây cũng chính là một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa các tác phẩm thơ ca và tác phẩm mô tả. Nhưng dù ở trường hợp nào, nó cũng được dùng để diễn tả sự tồn tại của sự vật. Ở quãng nghỉ giữa mỗi lần đọc, chúng ta có thể học được nhiều điều từ bài thơ hơn là ta nhận ra.
Nhưng chúng được coi là ba thuật ngữ với điều kiện bạn (độc giả) và chúng tôi (tác giả) biết rõ khi nào thì X được dùng với một nghĩa này chứ không phải nghĩa kia. Những giả thuyết như thế được rút ra trực tiếp từ kinh nghiệm chứ không phải được chứng minh từ những giả thuyết khác. Một lập luận có thể được diễn đạt bằng một câu phức, hoặc bằng một số câu trong một đoạn văn, hoặc trùng với một đoạn.
Lý do thứ hai, không phải câu nào cũng đơn giản như câu Đọc sách chính là học. Nhiều khi, chúng ta thích hay không thích một tuýp người này hơn tuýp người khác mà không biết tại sao. Với lối suy nghĩ có thể gộp hai bước làm một, họ đọc tất cả mọi thứ với cùng một nhịp độ rất chậm hoặc rất nhanh.
Bằng không, đó là một tác phẩm triết học. Điều này không có nghĩa là sự bất đồng luôn là vấn đề nổi cộm trong mọi cuộc tranh luận. Nhưng như vậy, ban không cần ai giúp và cũng không cần nghe chúng tôi nói thêm bất cứ điều gì về phương pháp đọc đồng chủ đề nữa.
Trên thực tế, bất cứ nhà thơ tài danh nào cũng thường cố ý tạo ra sự mập mờ trong tác phẩm của mình. Sau đó, trong quá trình đọc phân tích, bạn cần trả lời những câu hỏi về tính chân thực và tầm quan trọng của cuốn sách. Tuy nhiên, đây đồng thời cũng là điểm bất lợi của văn phong này vì nó không hề mang tính trình bày.
Người đọc có cảm giác tác giả muốn nói nhiều hơn những gì được viết ra vì họ phải suy nghĩ rất nhiều và liên kết các câu, dựng nên những lý lẽ để đưa ra lý luận của riêng mình. Có ít nhất năm cách trình bày phương pháp triết học được các nhà triết học vĩ đại của phương Tây sử dụng. Đọc một bài viết, người đọc có thể tiếp nhận một lượng thông tin ít hay nhiều, toàn bộ hay chỉ một phần, phụ thuộc vào mức độ hoạt động họ bỏ ra trong quá trình đọc, và kỹ năng điều khiển các hoạt động trí óc liên quan.
Giả sử một nhà khoa học cũng băn khoăn với câu hỏi về kiểu sống của con người. Không phải tất cả các câu trong sách đều ẩn chứa một nhận định vì có những câu nêu lên sự nghi vấn. Lý do là một số cuốn sách không đòi hỏi phải đọc theo phương pháp.
(3) Bên cạnh việc tối giản hoá sự thống nhất, bạn còn phải tìm ra phương thức tạo nên chỉnh thể thống nhất đó từ tất cả các thành phần đơn lẻ. Một bộ phận các từ dùng để diễn tả những ý tưởng chính, những khái niệm cốt yếu mà tác giả muốn đề cập đến sẽ góp phần tạo nên hệ thống từ vựng riêng của tác giả đó. Ví dụ, có một nhận định cơ bản trong siêu hình học được phát biểu như sau: Không có gì vận động trừ những vật đang tồn tại.
Bằng năng lực, trí tuệ của mình, bạn phải tìm cách làm sáng tỏ những con chữ trước mắt sao cho từ chỗ hiểu ít, bạn dần hiểu nhiều hơn. Nếu bạn thực hiện nhất quán nguyên lý này, bạn sẽ thấy mình ngày càng cần ít sự trợ giúp hơn. Đó là ý niệm của tác giả, và cũng là của bạn, đã được đào sâu và mở rộng qua quá trình đọc.
Hội thoại triết học: Đây là phương thức trình bày triết học đầu tiên tính theo thời gian (không phải theo tính hiệu quả) và được Plato dùng trong tác phẩm Dialogues (Những cuộc hội thoại). Bạn biết được nhiều điều về cuốn sách sau khi chỉ dành cho nó vài phút, nhiều nhất là một tiếng. Nó còn giúp ta giữ cho trí óc sống và phát triển.